Các biện pháp lai cải tạo giống
Phát triển giống bò sữa ở Việt Nam - Phần 1
Việt Nam bắt đầu lai tạo bò sữa từ những năm 1959-1960 tại nông trường Ba Vì. Giống bò sữa đầu tiên là Lang trắng đen được nhập từ Trung Quốc, sau đó là nhập Holstein Friesian (HF) từ Cu Ba. Công tác nhân thuần và lai tạo được tiến hành tại các cơ quan nghiên cứu và nông trường quốc doanh tại Ba Vì và Mộc Châu. Sau ngày giải phóng Miền Nam, một số bò thuần HF từ Mộc Châu chuyển vào Đức Trọng. Trong thời kì bao cấp, số lượng và chất lượng đàn bò thuần và lai HF có chiều hướng đi xuống. Những năm đầu của thời kì đổi mới, một số bò thuần HF được chuyển về các trại tư nhân. Từ 1986 công tác lai tạo bò sữa phát triển mạnh ở TP. Hồ Chí Minh. Số lượng bò lai HFvà số hộ nuôi bò lai sữa tăng nhanh. Năm 1990 Thành phố có khoảng 5000 con và đến 1994 lên 10400 con. Vào năm 2000, tổng đàn bò sữa cả nước gần 35 ngàn con, có hơn 17 ngàn cái sinh sản. Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận chiếm khoảng 31 ngàn con. Trên 90% số bò sữa nuôi trong hộ dân. Bình quân 4-5 con/hộ. Tập trung ở vùng ven đô thị, thành phố lớn.
Trong 10 năm, từ 1990 đến năm 2000, tốc độ tăng đàn bò sữa ở nước ta đạt trung bình 12% mỗi năm, cao gấp 2 lần so với heo và gà. Nuôi bò sữa nông hộ đã trở thành phổ biến tại các địa phương như Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Long An, Cần Thơ, Tiền Giang, Hà Nội, Vĩnh Phúc... Nuôi bò sữa nông hộ đã cho thấy tính hiệu quả và bền vững, đặc biệt là đối với những vùng thuần nông: năng suất cây trồng thấp. So với heo và gà. thì nuôi bò sữa cho hiệu quả kinh tế caa và ổn định hơn. Rất nhiều nông dân có nguyện vọng muốn được học tập và đầu tư vào nuôi bò sữa. Đến nay nhiều tỉnh trong cả nước đã xây dựng dự án phát triển bò sữa.
Nhà nước có hẳn một chương trình phát triển ngành sữa với mục tiêu đến năm 2010 tiêu thụ sữa đầu người ở nước ta tăng lên 10kg. Để tự túc được 25% nhu cầu sữa vào năm 2010 (10kg/người) thì phải nâng tổng số (đàn bò sữa từ 35000 con như hiện nay lên 200 ngàn con vào năm 2010 (tăng gấp 6 lần). Kế hoạch đến năm 2020 nâng tổng đàn lên 600 ngàn con. Để thực hiện được mục tiêu trên, cản trở lớn nhất là con giống bò sữa. Chưa khi nào công tác giống hò sữa ở nước ta lại sôi động như hiện nay, nhưng chương trình giống bò sữa Việt nam sẽ đi theo hướng nào?
Phần 2: Nội Dung
2.1 Hiện trạng chăn nuôi bò sữa ở Việt nam
Nhu cầu sữa tăng mạnh nhưng sản xuất sữa tươi trong nước chưa đáp ứng được nhu cầu
Sau những năm đổi mới đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện, nhu cầu của người dân tiêu dùng sữa và các sản phẩm từ sữa tăng đáng kể. Tiêu thụ sữa đầu người/năm ở nước ta vào năm 1980 là 0,7kg; năm 1990 là 1,4kg; năm 2000 ước tính 6kg. Nếu so sánh với một số nước lân cận của khu vực thì tiêu thụ sữa trên đầu người của ta chỉ cao hơn Lào, Campuchia, Indonexia và thấp hơn rất nhiều so với một số nước có truyền thống sử dụng sữa như Pakistan, ấn Độ. Theo ASIA, năm 1993, tiêu thụ sữa trên đầu người ở Pakistan: 130kg; ấn Độ: 70kg; Malaysia vào năm 2000 ước đạt 45kg.
Theo các số liệu thống kê thì sữa tươi sản xuất ra từ đàn bò trong nước vào năm 1990 ước đạt 17 ngàn tấn, năm 2000 ước đạt 52 ngàn tấn, trong khi đó lượng sữa tiêu thụ năm 2000 quy về dạng sữa nước khoảng 450 ngàn tấn. Như vậy sản xuất sữa trong nước mới chỉ đáp ứng một tỷ lệ rất nhỏ, nhu cầu còn lại phải nhập dưới nhiều dạng mà chủ yếu là sữa bột khử bơ. Nhập khẩu sữa bột trong thời gian qua tăng 25% mỗi năm. Hàng năm, hàng trăm triệu dola cho nhập khẩu sữa. Năm 2001 nhập khẩu khoảng 200 triệu USD sữa bột.
Theo báo cáo gần đây (1/2002) của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn cho biết, so với năm 1999 thì năm 2001 mức tiêu thụ sữa trên đầu người của ta đã tăng gấp 14,8 lần (ước 7kg/người). Vào thời điểm năm 2000, sản lượng sữa tươi sản xuất trong nước mới đáp ứng 10%, còn lại 90% phải nhập khẩu. Năm 2000 tổng các sản phẩm sữa nhập bằng con đường chính ngạch quy ra sữa tươi tương đương với 400-450 ngàn tấn.
Đặc điểm chăn nuôi bò sữa ở nước ta
Về cơ cấu giống
Bò HF thuần chỉ chiếm 5-6% tồng đàn, nuôi tập trung ở hai cơ sở giống tại cao nguyên Mộc Châu và Lâm Đồng. Công ty giống bò sữa Mộc Châu có 1800 con trong đó có 900 cái sinh sản. Ngày 28/12/2001 nhập từ Mỹ về thêm 50 con. Công ty giống bò sữa Lâm Đồng có 100 con, mới nhập thêm từ Mỹ 30 con. Đàn bò lai (phối tinh đực HF cho bò cái lai Zebu) với mức máu HF khác nhau (từ 50% - 87,5% HF) chiếm 94-95% tổng đàn. Đàn bò lai HF nuôi trong nông hộ và một số cơ sở chăn nuôi của các đơn vị nghiên cứu và xí nghiệp của nhà nước như: Trung tâm bò sữa Ba Vì 500 bò lai HF: Công ty bò sữa TP. Hồ Chí Minh 300 con, Xí nghiệp giống bò sữa Phù Đổng 250 con. Xí nghiệp bò sữa An phước 200 con, Trung tâm Huấn luyện bò sữa Bình Dương, Trại giống Cầu Diễn.
Năng suất sữa: Trước đây bò sữa được nuôi trong các trại giống của nhà nước, việc ghi chép được thực hiện bởi các cán bộ kĩ thuật. Số liệu ghi chép đầy đủ và có hệ thống nên việc đánh giá các chỉ tiêu sản xuất như sản lượng sữa, sinh sản của bò cái, sinh trưởng của bê và bò tơ... có độ tin cậy cao.
Bảng 1. Năng suất sữa của các nhóm bò sữa Việt Nam
(trên những đàn có trọn chu kì cho sữa)
Nhóm giống |
Sản lượng (kg/chu kỳ) |
Chu kỳ vắt sữa (ngày) |
Mỡ sữa (%) |
Kg/ngày vắt sữa |
Lai Sind |
1000-1500 |
270 |
4.81 |
3.7-6.0 |
HF thuần |
3600-4300 |
305 |
3.1 - 3.35 |
11.85 - 14.6 |
Lai HF F1 (50% HF) F2 (75% HF) F3 (87.5%HF) |
2830 - 2970 2520 - 3220 2650 - 3250 |
287 - 288 263 - 290 290 - 298 |
3.24 3.36 3.18 |
9.9 - 10.4 9.6 - 11.0 8.9 - 11.2 |
(Nguồn Đinh Văn Cải 2001)
Hơn chục năm nay đàn bò lai sữa ở nông hộ không được ghi chép đầy đủ, các chỉ tiêu công bố về sức sản xuất sữa, sinh sản thông qua các số liệu điều tra ở các thời điểm chỉ cho ta những số liệu để tham khảo, khác nhau nhiều so với số liệu thu được ở những đàn có ghi chép (bảng 1)
Năng suất bình quân toàn đàn bò lai HF ước đạt 3300kg/chu kì và năng suất bình quân của bò HF thuần ước 4100kg/chu kì.
Theo báo cáo của Nguyễn Quốc Đạt và cộng tác khi theo dõi trên 23 trại chăn nuôi bò sữa ở TP. Hồ Chí Minh từ 1994-1998. Đây là những trang trại thuộc loại lớn nhất ở TP. Hồ Chí Minh về quy mô đầu con, có kinh nghiệm chăn nuôi bò sữa trên 10 năm, điều kiện cơ sở vật chất, chuồng trại khá tốt, đảm bảo ổn định nguồn thức ăn cho bò sữa quanh năm, bò cái có lứa vắt sữa từ thứ 3 trở lên. Kết quả cho thấy: Trung bình sản lượng sữa thực tế của các phẩm giống bò lai F1, F2 và F3 là 3650 kg, trong đó sản lượng sữa của bò lai F1 là 3671 kg, của bò lai F2 là 3858 kg và của bò lai F3 là 3457. Như vậy sản lượng sữa thực tế của bò lai F2 là cao nhất, tiếp đến là bò lai F1 và thấp nhất là bò lai F3. Khoảng cách lứa đẻ từ 440 - 460ngày.
Công tác quản lý giống
Chỉ những bò sữa trong trại giống của nhà nước, các cơ sở phục vụ nghiên cứu khoa học mới có sổ theo dõi cá thể để quản lí giống. Tất cả bò cái nuôi trong nông hộ quy mô nhỏ không có sổ ghi chép vì vậy không quản lí được giống và gia phả của mỗi bò cái. Một điều tra giống bò sữa của Thành phố Hồ Chí Minh từ 1996-1999 cho biết: Tinh bò đực HF nhập từ nhiều nguồn (từ 9-10 nước khác nhau trên thế giới). Nhà nước không quản lí hết được các nguồn tinh nhập và sử dụng trên thị trường. Tinh của nhiều bò đực có tiềm năng cho sữa thấp.
Trên 70% số bò cái được gieo tinh mà không có ghi chép nguồn tinh sử dụng. Tình hình ở các địa phương khác còn tồi tệ hơn, kết quả là đàn bò cái được lai tạo thiếu kiểm soát, chất lượng con giống có nguy cơ giảm thấp. Biểu hiện ra ngoài là bò khó nuôi, bị bệnh tật nhiều, nhất là bệnh về sinh sản như chậm sinh, vô sinh, bệnh về chân, móng và bệnh viêm vú.
Những năm gần đây các tỉnh có nhu cầu lớn về giống bò sữa vì vậy thị trường ngày càng khan hiếm giống bò sữa. Giá bò sữa vượt xa giá trị thực. Một bò tơ giao bán 15 triệu và một bò vắt sữa năng suất 4500kg/chu kì giao bán tới 22 triệu đồng (thời điểm cuối 2001).
Để thực hiện chương trình giống bò sữa, ngày 29/12/2001 chúng ta đã nhập tổng số 192 con bò giống thuần HF và Jersey từ Mỹ. Sau khi nuôi tân đáo tại Ba Vì đã đưa về Mộc Châu 49 con HF; Lâm Đồng 29 con HF; Ba Vì 21 bò HF và 25 bò Jersey. Công ty nghiên cứu và phát triển ĐTPT Tây Nguyên 60 bò Jersey. Trung tâm Moncada 7 bò đực giống HF và 2 bò đực giống Jersey. Sau 6 tháng nuôi tại Việt nam đã có 19 con chết (chiếm 10%), bò cái cho sữa trung bình 22-23kg/ngày.
Thực hiện quyết định số 167/2001/QĐ-TTg ngày 26/10/2001 của Thủ tướng chính phủ về việc: Một số biện pháp và chính sách phát triển chăn nuôi bò sữa ở Việt Nam thời kì 2001- 2010, các tỉnh đã nhập bò HF thuần từ úc với mục đích sản xuất sữa.
Đợt đầu (l3/3/2002) công ty NOVICO nhập 778 con cho Công ty bò sữa TP. Hồ Chí Minh 300 con; Công ty nông sản thực phẩm An Giang 198 con; Nông trường sông Hậu 100 con; Công ty mía đường Lam Sơn 45 con; Liên hiệp HTX bò sữa Gia Định 45 con... Sau 3 tháng nuôi (tính cả thời gian nuôi tân đáo) đã chết và loại thải 26 con.
Đợt 2 (18/5/2002) công ty NOVICO nhập 714 con cho tỉnh Tuyên Quang (có 5 bò đực giống; 281 con bê 11 - 14 tháng tuổi: 309 bò tơ 15 - 18 tháng tuổi và 119 bò có thai từ 3 - 5 tháng). Sau gần 2 tháng nuôi tân đáo tại 4 cơ sở quốc doanh và 1 cơ sở tư nhân có 5 con chết do viêm phổi và nhiễm trùng máu, 13 con bị sảy thai.
Kế hoạch từ tháng 8-12/2002 công ty NOVICO sẽ tiếp tục nhập khoảng 2400 con cho Thành phố Hồ Chí Minh (500 con): Lâm Đồng (100 con); Bình Đinh (100 con); Bà Rịa Vũng tàu (100 con); Sơn La (750 con); Vĩnh Phúc (100 con); Hà Nam (150 con); Hà Tây (100 con); Nghệ An (100 con) và Nông Việt (400 con).
Đợt 3 với số lượng 1200 con dự kiến sẽ về nước vào ngày 18/8/2002.
Nhìn chung các đợt nhập bò sữa có nhiều vấn đề phát sinh cần phải rút kinh nghiệm. Đợt nhập 192 bò giống từ Mỹ, việc chuẩn bị rất chu đáo nhưng vẫn còn vướng mắc về kĩ thuật, đặc biệt về thú y
Hai đợt nhập bò HF úc vừa qua cũng khơi dậy nhiều tranh luận về chất lượng con giống và nhiều vấn đề thuộc về kĩ thuật, quản lí khác. Xin trích một đoạn trả lời phỏng vấn của ông Lê Bá Lịch, Phó Cục trưởng Cục khuyến nông khuyến lâm trên báo Nông nghiệp ngày 26/7/2002 như sau: "Vẫn và sẽ tiếp tục nhập bò ngoại, nhất là bò sữa của úc. Nhưng để đảm bảo thắng lợi tránh rủi ro và tổn thương trong chăn nuôi bò sữa. Bộ yêu cầu các địa phương chưa có tập quán và kinh nghiệm nuôi bò sữa, lần đầu chỉ nên nhập số lượng ít, khoảng 100-200 con. Sau khi nuôi thử, thấy phù hợp và có kết quả tốt mới quyết định nhập tiếp về nuôi".
Thức ăn cho bò sữa
Sự gia tăng nguồn thức ăn và đồng cỏ không tương xứng với tốc độ tăng đàn bò sữa. Thức ăn cho bò sữa mà đặc biệt là thức ăn thô xanh không đủ về số lượng, kém về chất lượng. Việc phát triển đồng cỏ làm thức ăn cho bò sữa hiện nay rất khó khăn. Vùng tập trung chăn nuôi bò như các thành phố lớn, thị xã thì giá đất đai là trở ngại lớn nhất để người chăn nuôi dành đất để trồng cỏ nuôi bò. Vùng còn qũy đất thì chưa hội đủ điều kiện để phát triển đàn bò sữa. Có những vùng nuôi bò dựa chủ yếu vào nguồn cỏ ở bãi chăn thả chất lượng kém và không an toàn cho sức khỏe bò sữa do ảnh hưởng của chất hoá học sử dụng để diệt cỏ, diệt côn trùng các loại hoặc chất thải độc hại của các nhà máy công nghiệp. Ước tính lượng cỏ xanh tự nhiên và cỏ trồng hiện nay mới đáp ứng khoảng 30% nhu cầu thức ăn thô xanh của đàn bò sữa. Những tháng mùa khô cỏ xanh thiếu trầm trọng, ngay cả rơm rạ cũng không đủ. Nguồn thức ăn thô dự trữ chủ yếu là rơm rạ có giá trị dinh dưỡng thấp. Thiếu thức ăn thô, người chăn nuôi phải tăng thức ăn tinh như cám, bắp và tăng sử dụng phụ phẩm khác như hèm bia, bã đậu nành, bã củ sắn để nuôi bò. Đây là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến năng suất sữa thấp, chất lượng sữa kém, bò dễ mắc bệnh về sinh sản, chân móng dẫn đến phải loại thải sớm..
Giá thành sản xuất sữa
Mặc dù có một thị trường nội địa to lớn, nhưng sản xuất sữa ở Việt nam cũng đang đứng trước những thách thức không nhỏ. Đó là giá thành sản xuất sữa của ta còn cao.
Giá sữa tươi hiện nay các công ty Vinamilk và Foremost mua "nóng" tại trạm thu mua khoảng 0,223 USD/kg. Nếu tính cả chi phí sau làm lạnh thì ước tính khoảng 0.27 USD/kg, cao hơn Nga, Hung, Ba Lan (0,23 USD/KG sữa lạnh), New Zealand: úc, ấn Độ 0,15 - 0,17 USD/kg. Đó là giá thu mua, còn giá thành sản xuất theo ước tính của chúng tôi từ 2200đ đến 2800đ/kg tùy từng khu vực và điều kiện cụ thể mỗi nông hộ. Người tự lai tạo được bò vắt sữa không phải mua giống thì chi phí sản xuất giảm đáng kể.
Giá thành sản xuất sữa cao trước hết là do giá thức ăn tinh cho bò sữa cao và giá bò giống cao. Đối với bò sinh sản cho sữa, chi phí thức ăn tinh chiếm khoảng 50% tổng chi phí thức ăn. Giảm chi phí thức ăn tinh có ý nghĩa lớn đến giảm giá thành sản xuất sữa. ở các nước, giá 1 kg thức ăn tinh hỗn hợp bằng 50% giá 1kg sữa (một lít sữa mua được 2kg cám hỗn hợp), trong khi ở Việt nam giá thức ăn tinh bằng 71% giá 1 kg sữa (2400đ/3350đ = 71,6%, một lít sữa mua được 1,4kg cám hỗn hợp).
Một lí do nữa dẫn đến giá thành sản xuất cao là khấu hao giống bò trên 1 kg sữa cao. Giống bò của ta tự lai tạo, phẩm chất không đồng đều, không được chọn lọc nên nhiều con năng suất và chất lượng rất kém, trong khi giá bò giống lại rất cao. Vào thời điểm hiện nay (2002), một bò giống có sản lượng sữa 3300kg/chu kì có giá khoảng 18 triệu đồng. Điều này dẫn đến khấu hao con giống cho một lứa sữa từ 2,8 triệu đồng (nếu khai thác được 5 lứa) đến 3,5 triệu đồng (nếu chỉ 4 lứa, như vậy hơn 1000đ khấu hao giống cho 1kg sữa). Thông thường thì chi phí thức ăn chiếm khoảng 65-70% chi phí sản xuất sữa. Nhưng khi giá bò giống cao bất thường như hiện nay thì chi phí con giống tăng vọt, chiếm 25% chi phí sản xuất sữa, vì vậy tỷ trọng chi phí thức ăn giảm tương đối còn 50% tổng chi phí sản xuất sữa. Theo tính toán của chúng tôi, nếu tính đủ chi phí và một con bò sữa có chỉ tiêu sản xuất trung bình như chỉ ra ở bảng 4 (phụ lục) thì người nuôi bò sữa không có lời. Thu nhập của họ ước trên 3 triệu đồng/con/năm nhờ tiết kiệm chi phí thức ăn thô (tự sản xuất) và công chăm sóc nuôi dưỡng.
Theo cách tính ở trên một con bò HF úc giá mua 20 triệu đồng, nếu khai thác được 4 lứa, mỗi lứa 4000kg, khoảng cách lứa đẻ 420 ngày, chi phí thú y 200 ngàn đồng/lứa thì người nuôi hoà vốn. Giá bò rẻ hơn, sữa nhiều hơn, chi phí thú y ít hơn thì người nuôi có lời, ngược lại thì lỗ. Người chăn nuôi cần cân nhắc kĩ khi quyết định nuôi bò HF thuần nhập từ úc.
Người nông dân thiếu vốn thiếu kiên thức và kỹ năng để nuôi bò sữa. Hiện nay chỉ có số ít người có tiền và có kiến thức để đầu tư vào bò sữa như một nghề kinh doanh thực thụ. Phần đông người nuôi bò sữa là dân nghèo, ít vốn, không có kinh nghiệm kinh doanh. Nhiều người nông dân nhỏ khởi sự nuôi bò sữa mà không được chuẩn bị kiến thức và kĩ năng nghề nghiệp. Hầu hết người dân nuôi bò ít có cơ hội được học tập nâng cao kiến thức và kĩ năng để nuôi bò sữa theo khoa học.
Thời gian qua, việc lai tạo bò sữa từ đàn bò nền Lai Sind sẵn có tại các nông hộ làm cho giá bò giống rất rẻ, bò lai dễ nuôi, mặt khác người chăn nuôi có đất rộng trồng cỏ, thu cắt cỏ tự nhiên và tận dụng phụ phẩm nuôi bò vì vậy chi phí sản xuất thấp, lợi nhuận cao chưa kể khoản thu nhập từ công sức bỏ ra cho chăn nuôi không được hạch toán vào chi phí. Con bò sữa thực sự là cứu cánh cho những hộ thiếu việc làm, là con vật giúp xoá đói giảm nghèo cho bao gia đình. Bây giờ tình hình đã đổi khác nhưng cái nếp nghĩ con bò là giải pháp xoá đói giảm nghèo vẫn còn. Giá một con bò sữa tốt hiện nay trên dưới 20 triệu đồng thì không phải dành cho người nghèo. Nhà nước có cho họ vay vốn mua bò giống thì cũng không chắc đã giúp được họ giảm nghèo hay họ sẽ nghèo thêm vì khi không có kiến thức, không có kinh nghiệm sẽ bị thua lỗ, thất bại. Kiến thức và kinh nghiệm không phải chỉ đi tập huấn mấy ngày mà có được, phải có thời gian để tích lũy và hình thành kĩ năng thực sự. Ông Lê Bá Lịch có lí khi nói "Giao bò (bò HF úc) cho các hộ nghèo là chủ chương đúng. Thế nhưng cũng cần phải nói thêm rằng, nuôi bò sữa rất khác so với nuôi bò thịt, bò cày. Nếu đã thiếu vốn, lại không có kiến thức thì nuôi con gà cũng chết chứ đừng nói gì đến việc nuôi bò sữa nhập ngoại" (Báo Nông nghiệp 26/7/2002 trang 8)
Hiện tại và sắp tới, rất nhiều các chủ chăn nuôi bò sữa vẫn còn phải tiếp tục đối đầu với những khó khăn trên của họ.
2.2 Công tác nghiên cứu và lai tạo giống bò sữa từ 1970 đến nay
Ngay từ những năm 1970 chúng ta đã nhất quán công tác giống bò sữa cho Việt Nam là thông qua con đường lai tạo. Các bước tiến hành như sau:
Bước 1: Cải tạo bò Vàng Việt nam theo hướng Zebu hoá, phổ biến là sử dụng đực Sind hoặc tinh của nó để phối giống cho bò cái Vàng ta. Sau này có sử dụng thêm đực giống Sahiwal. Con lai từ đực Sind hay Sahiwal sau này gọi với tên thống nhất là Lai Sind. Một chương trình nhà nước trong nhiều năm qua cho mục đích này được biết đến là chương trình Sind hoá.
Bước 2: Sử dụng bò đực hoặc tinh của bò đực Holstein Fnesian (viết tắt là HF, quen gọi là bò Hà Lan, hay bò Lang trắng đen) để phối giống cho đàn cái nền lai Sind tạo ra con lai đời 1 có 1/2 máu bò HF, gọi là F1 HF. Điểm nổi bật của con lai F1 HF này là năng suất sữa có thể đạt 2500- 3000kg/chu kì 300 ngày, sinh sản tốt, thích nghi rộng với nhiều vùng khí hậu nóng ẩm, dễ nuôi, yêu cầu đầu tư kĩ thuật và quản lí thấp. Vì kết quả này mà người ta muốn tiếp tục nâng cao hơn máu bò Hà Lan trong con lai, một lần nữa sử dụng tinh đực Hà Lan để phối cho cái F1 HF tạo ra con lai có 3/4 máu bò HF mà ta quen gọi là bò lai F2 HF. Thực tế cho thấy bò F2 chưa đáp ứng được mong muốn, bởi vì nếu cũng đầu tư nuôi dưỡng, kỹ thuật và quản lí như đối với bò F1 thì hiệu quả sản xuất không cao hơn bò F1! Về lí thuyết, con lai F1 HF sau mỗi bước lai ngược lại với đực HF thì tỷ lệ máu lai sind trong con lai giảm đi 1/2, trong thực tế những con lai máu HF cao khả năng thích nghi giảm, đi kèm với gia tăng các vấn đề về sinh sản.
Kết quả nổi bật của công tác giống bò sữa trong vài chục năm qua là đã tạo ra đàn cái lai 3 máu sản xuất sữa (bò Vàng Việt nam, bò Red Sindhi và bò Holstein Friesian). Con lai F1 và F2 HF được nuôi rộng rãi ở những vùng nóng (Miền Đông Nam Bộ) và đóng góp đến 90% tổng sản lượng sữa sản xuất trong nước. Giờ đây sản xuất sữa không còn bó hẹp vào đàn bò thuần HF số lượng nhỏ và chỉ nuôi được ở vùng cao nguyên.
Đến nay, số đông các nhà nghiên cứu và các nhà chăn nuôi bò sữa đều đồng ý rằng sử dụng con lai F1 và F2 (máu HF từ 1/2 đến 3/4) để sản xuất sữa cho những vùng khí hậu nóng và ẩm của Việt Nam. Tuy vậy, làm thế nào để duy trì tỷ lệ máu trong con lai từ 1/2-3/4 qua các bước lai tiếp theo? Có thể nâng tiếp máu bò HF trong con lai lên F3 (7/8 HF) hay F4 (15/l6 HF)? Có thể nuôi được bò HF thuần ở vùng nóng ẩm của Việt Nam, khi trình độ chăn nuôi và đầu tư kĩ thuật của người nông dân đã tốt hơn?... Đây là những câu hỏi chưa có kết quả nghiên cứu và cũng chưa được thực tế chứng minh một cách thuyết phục.
Một vài nghiên cứu về đánh giá đực giống HF và đực lai HF đã được tiến hành trong thời gian vừa qua. Tuy nhiên do số lượng đàn bò cái của ta còn rất nhỏ bé, phương pháp chăn nuôi phân tán, quy mô đàn nhỏ, thiếu một hệ thống ghi chép cá thể và không có hệ thống quản lí giống quốc gia nên việc đánh giá giống sẽ không khả thi và tất nhiên là không thể tiến hành tốt được.
Các chương trình cấp nhà nước 1980-1985; 1985 - 1990; 1990 - 1995; 1995-2000 về nghiên cứu và phát triển bò sữa đã được tặng giải thưởng cấp nhà nước năm 2000. Hiện nay đang tiến hành chương trình giống quốc gia năm 2001-2010, mà nội dung chủ yếu là lai tạo ra bò lai F1 và F2 HF. Như vậy nhìn chung các chương trình trên đều hướng tới việc lai tạo ra con lai F1 và F2 HF, chưa đặt mục tiêu xác định công thức lai tạo thích hợp cho mỗi khu vực khác nhau, chưa đặt trọng tâm vào quản lí giống, đánh giá giống để từng bước chọn tạo ra đàn bò sữa Việt nam.
Các đơn vị, tổ chức chăn nuôi bò sữa do nhà nước quản lí như: Trung tâm sản xuất tinh Moncada, Trung tâm nghiên cứu bò và đồng cỏ Ba Vì, Công ty sữa Thảo Nguyên, Mộc Châu, nông trường bò sữa Đức Trọng, Trung tâm nghiên cứu và thực nghiệm chăn nuôi gia súc lớn Sông Bé (Bình Dương) và các xí nghiệp chăn nuôi bò sữa khác của nhà nước một thời gian dài lu mờ vai trò, nay đang được đầu tư trở lại.