Quản lý chăn nuôi bò sữa

Lịch sử phát triển công nghệ sinh sản trên bò

Sự tiến bộ của sinh học và công nghệ trong suốt sáu thập kỷ qua đã mang lại sự phát triển của bốn thế hệ công nghệ hỗ trợ sinh sản (Assisted Reproductive Technology-ART).

Trong lịch sử, ngoài sự ham biết khoa học, sự nảy sinh và phát triển của công nghệ sinh sản đã được thúc đẩy bởi việc cố gắng đạt được hiệu quả kinh tế cao hơn bằng cách tăng trong số con ở thế hệ đời sau từ những động vật có tiềm năng di truyền ưu tú hoặc đơn giản là để bảo vệ nguồn gen của những động vật sinh sản kém hay vô sinh. Nói cách khác, công nghệ sinh sản được phát triển để cung cấp cho chúng ta khả năng sử dụng các cá thể ưu tú rộng rãi hơn (Moore và Thatcher, 2006). Một tác dụng hữu ích nổi bật của công nghệ sinh sản là nghiên cứu cơ bản và lâu dài giúp giải thích những cơ chế sinh học phức tạp trong hệ thống sinh sản cũng như chu kỳ sinh sản của con đực và con cái. Ngày nay, không thể phân biệt giữa công nghệ sinh sản và công nghệ di truyền trong một chương trình quản lý di truyền thành công. Do đó, ứng dụng của công nghệ sinh học trong chăn nuôi thường nằm trong bốn lĩnh vực sau: (a) chăn nuôi và quản lý (b) sức khỏe gia súc (c) dinh dưỡng và phát triển và (d) sinh sản và di truyền.

Hiệu quả của công nghệ hỗ trợ sinh sản và công nghệ di truyền chỉ được thể hiện khi các lĩnh vực khác của quản lý gia súc, như huấn luyện người chăn nuôi cách thực hiện các kỹ thuật sinh sản và di truyền, sức khỏe và dinh dưỡng gia súc, cũng nằm trong chương trình cải thiện giống. Phần lớn các kỹ thuật sinh sản có liên quan đến di truyền, đã phát triển vững chắc trong nữa thế kỷ qua, đều thuộc trong 3 thế hệ đầu tiên của công nghệ sinh sản, bao gồm gieo tinh nhân tạo, đông lạnh giao tử và phôi, chuyển phôi và thụ tinh trong ống nghiệm. Thế hệ công nghệ sinh sản thứ ba và thứ tư gồm tinh và phôi (xác định) giới tính, nhân bản, sinh học tế bào gốc, và chẩn đoán phân tử có tiềm năng để nâng cao tầm ảnh hưởng của những gia súc ưu tú trong chăn nuôi, tuy nhiên ứng dụng thương mại của những kỹ thuật này còn giới hạn. Hơn nữa, việc sử dụng genomics, proteomics, metabolomics và tin-sinh học trong các nghiên cứu sinh sản sẽ cho phép hiểu rõ hơn những vấn đề còn giới hạn hiệu quả của tiến trình sinh sản.

TS. Chung Anh Dũng

Nguồn: ias-cnsh.org
Ý kiến của bạn
Tên của bạn * :
E-mail * :
Tiêu đề * :
Nội dung * (Bạn vui lòng gõ tiếng việt có dấu):
 
Mã bảo mật * :   
   
Bài viết khác