Sữa Việt Nam

Ngành sữa Việt Nam: Cơ hội vươn lên từ nội lực sản xuất trong nước

Ngày 5/8/2025, tại Hà Nội, Viện nghiên cứu chiến lược, chính sách công thương (Bộ Công Thương) tổ chức hội thảo khoa học “Phát triển ngành sữa Việt Nam giai đoạn đến năm 2023, tầm nhìn đến năm 2045”. Hội thảo nằm trong chuỗi hoạt động do Bộ Công thương chủ trì nhằm nâng cao nhận thức của người dân về vai trò của sữa và các sản phẩm sữa trong Chiến lược quốc gia bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân.

 Nhiều dư địa thúc đẩy phát triển sản xuất sữa tươi trong nước

 

Theo số liệu của Bộ Công Thương, ngành sữa Việt Nam đã có nhiều bước tiến đáng kể trong hơn một thập kỷ qua. Doanh thu toàn ngành tăng từ khoảng 4,4 tỷ USD năm 2017 lên 5 tỷ USD vào năm 2022 và đạt hơn 5,03 tỷ USD năm 2023.

 

Đáng chú ý, tổng đàn bò sữa của cả nước có sự tăng trưởng với tốc độ trung bình khoảng 4,6%/năm, từ 228.000 con năm 2014 lên khoảng 335.000 con vào năm 2024. Sản lượng sữa tươi nguyên liệu cũng ghi nhận mức tăng trưởng gần 8,4%/năm, từ 550.000 tấn (2014) lên trên 1,2 triệu tấn (2024) giúp Việt Nam tự chủ được khoảng 40% sữa tươi nguyên liệu trong nước.

 

Trong khi đó, mỗi năm, chi phí nhập khẩu sữa và các sản phẩm từ sữa rất lớn, tính riêng năm 2024 là khoảng hơn 1 tỷ USD, trong đó chủ yếu là sữa bột. Theo số liệu thống kê, mức tiêu thụ sữa bình quân đầu người tại Việt Nam vẫn còn khá thấp so với nhiều quốc gia phát triển.

 

Hiện tại, người Việt tiêu thụ trung bình khoảng 36 kg/người/năm, trong khi con số này ở Đan Mạch là 394 kg, Hoa Kỳ 228 kg, Pháp 251 kg… Từ số liệu trên, các chuyên gia cho rằng, dư địa tăng trưởng của ngành sữa Việt Nam còn rất lớn, đặc biệt trong bối cảnh thu nhập và nhận thức về dinh dưỡng đang ngày càng cải thiện.

 

Bên cạnh đó, ngành sữa đã chứng kiến sự thay đổi đáng kể về cơ cấu sản phẩm, đặc biệt trong ngành sữa nước. Tỷ lệ sữa nước chế biến từ sữa bột hoàn nguyên giảm mạnh, từ 92% (năm 2008) xuống còn 48,6% (năm 2020) và tiếp tục giảm còn 32,3% vào năm 2023.
Ngược lại, tỷ lệ sử dụng sữa tươi trong chế biến đã tăng từ 8% lên 67,7% trong cùng giai đoạn. Sự đảo chiều này này phản ánh xu hướng minh bạch và nâng cao chất lượng trong ngành, khi sữa tươi với lợi thế giữ được giá trị dinh dưỡng tự nhiên tốt hơn đang dần chiếm ưu thế.

 

Tiêu thụ sữa tại Việt Nam vẫn thấp hơn nhiều nước trong khu vực

 

Theo thống kê, mức tiêu thụ sữa bình quân đầu người tại Việt Nam hiện đạt khoảng 27 lít/người/năm và dự báo sẽ tăng trưởng 7-8% mỗi năm trong thời gian tới. Tuy nhiên, con số này vẫn khá khiêm tốn so với Thái Lan (35 lít), Singapore (45 lít), hay các quốc gia châu Âu (80-100 lít/người/năm).

 

Điều này cho thấy dư địa tăng trưởng của ngành sữa Việt Nam còn rất lớn, đặc biệt trong bối cảnh thu nhập và nhận thức về dinh dưỡng của người dân ngày càng cải thiện.

 

Năm 2023, sản lượng sữa tươi của Việt Nam đạt khoảng 1,86 tỷ lít, sữa bột đạt 154,8 nghìn tấn. Tuy nhiên, nguồn sữa tươi từ đàn bò sữa trong nước mới chỉ đáp ứng khoảng 38-40% nhu cầu chế biến, phần còn lại phải nhập khẩu, chủ yếu dưới dạng sữa bột để hoàn nguyên.

 

Theo TS. Nguyễn Xuân Dương, Chủ tịch Hội Chăn nuôi Việt Nam, việc phụ thuộc vào sữa bột nhập khẩu không chỉ ảnh hưởng đến giá trị dinh dưỡng của sản phẩm, mà còn làm suy yếu chuỗi giá trị chăn nuôi bò sữa nội địa. “Hiện ngành sữa Việt Nam mới có 3,3 con bò/1.000 dân, thấp hơn nhiều so với Thái Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc. Để phát triển bền vững, cần sớm có chính sách mạnh mẽ nhằm nâng tỷ lệ tự túc nguyên liệu sữa tươi lên 60% vào năm 2030”, ông Dương nhấn mạnh.

 

Thứ trưởng Bộ Công Thương Trương Thanh Hoài nhận định, trong bối cảnh hội nhập sâu rộng với nhiều FTA thế hệ mới như CPTPP, EVFTA…, ngành sữa Việt Nam đang đứng trước những cơ hội lớn để mở rộng thị trường và nâng cao năng lực cạnh tranh. Tuy nhiên, bên cạnh cơ hội là những thách thức về cạnh tranh với các doanh nghiệp sữa nước ngoài ngay trên sân nhà. Vì vậy, “Chiến lược phát triển ngành sữa giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” đóng vai trò then chốt, giúp định hướng doanh nghiệp nội địa xây dựng hướng đi sáng tạo, bền vững.

 

Dự báo, quy mô thị trường sữa Việt Nam sẽ đạt khoảng 4,59 tỷ USD vào năm 2025, với tốc độ tăng trưởng kép (CAGR) 8,21%/năm trong giai đoạn 2025-2030. Đây là tín hiệu cho thấy tiềm năng phát triển ổn định và bền vững của ngành sữa trong tương lai, nếu tận dụng tốt các cơ hội từ thị trường và chính sách hỗ trợ từ Nhà nước.

 

Nút thắt lớn nhất: Hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật

 

TS. Nguyễn Xuân Dương, Chủ tịch Hội Chăn nuôi Việt Nam cho rằng, nhiều quy định về tiêu chuẩn chất lượng và quy chuẩn kỹ thuật đối với sữa và sản phẩm từ sữa không minh bạch, rõ ràng, thiếu đồng bộ và thống nhất giữa các bộ, ngành gây khó khăn cho người sản xuất và lựa chọn của người tiêu dùng.

 

Bên cạnh đó, việc quản lý sữa và các sản phẩm từ sữa nhập khẩu còn nhiều bất cập, đang gây bất lợi cho sản xuất trong nước, nhất là đối với người chăn nuôi và các doanh nghiệp chế biến sản phẩm sữa từ nguồn nguyên liệu trong nước…

 

Nhiều chuyên gia cũng cho rằng, hiện nay cần phải làm rõ sữa tươi và sữa hoàn nguyên, bởi người tiêu dùng chưa hiểu rõ về hai loại sữa này và dễ nhầm lẫn. Trong khi đó, tại các nước phát triển, sản phẩm sữa nước hầu hết đều chế biến từ sữa tươi nguyên liệu; ở nhiều quốc gia khác đã có bước đi quyết liệt nhằm chuẩn hóa định nghĩa và chất lượng sữa. Đơn cử, Trung Quốc đã chính thức cấm sử dụng sữa bột hoàn nguyên trong sản xuất sữa tiệt trùng (Phụ lục sửa đổi số 1 của tiêu chuẩn GB 25190 – 2010, có hiệu lực từ 16/9/2025), nhằm thúc đẩy ngành sữa nội địa và bảo vệ người tiêu dùng.

 

Theo TS. Nguyễn Văn Hội, Viện trưởng Viện nghiên cứu Chiến lược, chính sách Công Thương, thực tiễn này cho thấy tính cấp thiết của việc sửa đổi hệ thống quy chuẩn quốc gia, đặc biệt là việc định danh rõ ràng các sản phẩm sữa dạng lỏng theo đúng bản chất nguyên liệu. Đây không chỉ là giải pháp kỹ thuật, mà còn là bước then chốt nhằm thiết lập trật tự thị trường, nâng cao tính minh bạch về nguyên liệu đầu vào, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, thúc đẩy phát triển bền vững ngành sữa Việt Nam.

 

Kinh nghiệm thành công từ mô hình sữa tươi sạch

 

Chia sẻ tại hội thảo, ông Ngô Minh Hải, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn TH khẳng định: “Việt Nam hoàn toàn đủ điều kiện để tự chủ sản xuất sữa tươi cho toàn dân”, với minh chứng từ thành công của TH true MILK đơn vị tiên phong trong “cuộc cách mạng sữa tươi sạch”.

 

Năm 2008, khi thị trường Việt Nam chủ yếu tiêu thụ sữa hoàn nguyên (92%), TH đã bước vào ngành sữa với định hướng tập trung vào sữa tươi sạch, ứng dụng công nghệ cao. Sau gần 15 năm, TH sở hữu cụm trang trại bò sữa khép kín lớn nhất thế giới (70.000 con, sản lượng 351 triệu lít sữa/năm), góp phần đảo chiều tỷ lệ sữa tươi trong ngành từ 8% lên hơn 60%.

 

Chủ tịch HĐQT Tập đoàn TH cho biết, để phát triển bền vững ngành sữa, cần một lộ trình cụ thể, dựa trên kinh nghiệm thành công của các mô hình chăn nuôi tập trung, ứng dụng công nghệ cao. Mục tiêu đặt ra là nâng tỷ lệ tự chủ nguồn sữa tươi nguyên liệu từ 40% hiện nay lên 58% vào năm 2035 và tiếp tục tăng lên 74% trong những năm sau đó. Đồng thời, tỷ lệ sữa nước chế biến từ sữa tươi sẽ đạt 90-93%, tiệm cận với các quốc gia phát triển.

 

Để hiện thực hóa mục tiêu này, Tập đoàn TH đưa ra hai kịch bản phát triển đàn bò:

 

  • Kịch bản 1: Mô hình chăn nuôi tập trung, công nghệ cao. Nếu 100% đàn bò được nuôi theo mô hình này, với năng suất đạt 35 lít/con/ngày như hiện tại của TH, Việt Nam cần một đàn bò khoảng 700.000 – 1 triệu con vào năm 2035. Tốc độ tăng trưởng sản lượng sữa tươi nguyên liệu cần duy trì ở mức 11%/năm.

 

  • Kịch bản 2: Mô hình chăn nuôi hỗn hợp (nông hộ kết hợp chăn nuôi tập trung). Do năng suất thấp hơn, để đạt cùng sản lượng sữa tươi, tổng đàn bò cần tăng gần gấp đôi, ước tính khoảng 1,2 triệu con.

 

Đồng tình với đề xuất của Tập đoàn TH, TS. Nguyễn Xuân Dương nhấn mạnh: “Quy mô đàn bò sữa hiện nay chưa tương xứng với tiềm năng và điều kiện tự nhiên của Việt Nam. So với Nhật Bản và Israel, Việt Nam có lợi thế về diện tích và điều kiện chăn nuôi. Chúng ta hoàn toàn có thể nâng đàn bò sữa lên gấp 4-5 lần so với hiện tại vào những năm 2030, tương đương 1,3 – 1,5 triệu con. Khi đó, sản lượng sữa tươi nguyên liệu có thể đạt từ 4,3 – 5 triệu tấn mỗi năm.

 

Thu Hằng

Nguồn: Sưu tầm
Ý kiến của bạn
Tên của bạn * :
E-mail * :
Tiêu đề * :
Nội dung * (Bạn vui lòng gõ tiếng việt có dấu):
 
Mã bảo mật * :   
   
Bài viết khác