Sữa Việt Nam
Thực trạng và giải pháp phát triển chăn nuôi bò sữa, bò thịt thời gian tới tại Hà Nội
Hiện nay tổng đàn bò toàn thành phố hơn 130 nghìn con, trong đó đàn bò sữa gần 15 nghìn con. Với dân số khoảng trên 10 triệu người thường xuyên có mặt sinh sống và làm việc, Hà Nội hiện đang là trung tâm tiêu thụ thực phẩm lớn nhất của vùng đồng bằng sông Hồng và các tỉnh phía Bắc. Ước tính nhu cầu sử dụng thịt gia súc, gia cầm của thành phố khoảng 320 nghìn tấn/năm (gần 900 tấn/ngày); trong khi đó sản xuất chăn nuôi của thành phố mới chỉ đáp ứng được khoảng trên 60%, còn lại phải nhập từ các tỉnh và nhập khẩu. Đối với sản phẩm thịt bò, sản lượng sản xuất ra của thành phố hơn 10 nghìn tấn/năm, mới chỉ đáp ứng được gần 20% nhu cầu thịt bò. Đối với sản lượng sữa bò tươi 38,6 nghìn tấn, mới chỉ đáp ứng được gần 30% nhu cầu tiêu thụ của người dân Thủ đô.
Như vậy có thể thấy dư địa cho chăn nuôi bò sữa, bò thịt của Hà Nội vẫn còn rất lớn. Trong vài năm trở lại đây, khi mà chăn nuôi lợn, gà bị ảnh hưởng nhiều của dịch bệnh, thì việc chú trọng phát triển đàn gia súc lớn sẽ là hướng đi đáp ứng được những đòi hỏi của quá trình tái cơ cấu lại ngành nông nghiệp. Đây được coi là giải pháp chiến lược góp phần thực hiện mục tiêu tái cơ cấu ngành nông nghiệp, tăng thu nhập cho người chăn nuôi, từng bước đáp ứng nhu cầu sử dụng thịt bò, sữa bò cho người dân Thủ Đô.
Nhìn lại Chương trình nâng cao năng suất, chất lượng giống vật nuôi trên địa bàn Thành phố, trước năm 2010, tổng đàn bò trên địa bàn thành phố khoảng 149 nghìn con, trong đó bò sữa là 7,7 nghìn con, còn lại là bò thịt và bò sinh sản. Giai đoạn này, chủ yếu là các giống bò có năng suất, chất lượng thấp. Đối với bò sữa sản lượng sữa chỉ đạt dưới 4 nghìn lít/chu kỳ. Đối với bò thịt, tỷ lệ bò lai Zebu chiếm 70% (các giống chủ yếu là bò lai Sind), tỷ lệ bò được phối giống bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo (TTNT) mới đạt khoảng 34%. Từ năm 2011 đến nay, thực hiện chương trình TTNT bò miễn phí, thành phố Hà Nội đã đưa các giống bò mới năng suất, chất lượng cao vào sản xuất. Chất lượng đàn bò đã được nâng lên rõ rệt. Tỷ lệ TTNT trên đàn bò sữa đạt 100%, đàn bò thịt đạt 80%. Hàng năm, Hà Nội cung cấp cho thị trường khoảng 8.000 con bê sữa, 55.000 bê thịt các loại. Cụ thể đối với bò thịt, đã đưa các giống bò năng suất, chất lượng cao vào lai tạo (Brahman, Droghmatterr, BBB, Charolai, Angus, Wagyu ...), nâng khối lượng trung bình ở giai đoạn trưởng thành (24 tháng tuổi) từ 220-300 kg/con (bò vàng ) tăng lên 350-380 kg/con (bò laisind). Đến nay, khối lượng của các giống bò lai chất lượng cao (BBB, Charolai, Angus, Wagyu) đã tăng lên 480-650 kg/con, nâng tỷ lệ thịt xẻ từ 43% lên 63%. Nhìn chung, các giống bò mới đã mang lại hiệu quả kinh tế cho người chăn nuôi thêm từ 3 - 6 triệu đồng/bê. Ngoài ra, công tác cải tạo đàn bò cái nền bằng tinh bò Brahman, Senepol là tiền đề cho việc ứng dụng công nghệ cao vào lai tạo, sản xuất giống bò thịt trên địa bàn Hà Nội.
Đối với bò sữa, đã đưa tinh phân ly giới tính để từng bước cải thiện đàn bò sữa hiện nay, chọn lọc nâng cao năng suất sữa. Kết quả cho thấy tỷ lệ bê cái sinh ra từ tinh phân ly giới tính đạt 90%, sản lượng sữa bình quân đạt 5.500 kg/con/chu kỳ (cao hơn 600 kg/con/chu kỳ so với sản lượng sữa bình quân của đàn bò sữa sinh ra từ tinh bò sữa thường). Như vậy, nếu chăn nuôi bò sữa được sinh ra từ tinh phân ly giới tính, hiệu quả mang lại tăng thêm từ 6 - 8 triệu đồng/con/chu kỳ do sản lượng sữa tăng lên.
Tuy nhiên, bên cạnh thành tựu đạt được, công tác phát triển chăn nuôi bò sữa, bò thịt còn có những khó khăn, hạn chế đặc biệt trong xu thế hội nhập, đó là người chăn nuôi do điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn nên thường không chăn nuôi bò đến khi giết thịt mà chủ yếu bán bê ngay sau khi sinh ra, dẫn tới hiệu quả kinh tế chưa cao. Các hộ đa phần còn sử dụng thức ăn tận dụng, chưa áp dụng chăn nuôi theo hướng công nghệ cao (sử dụng thức ăn hỗn hợp TMR, TMF ...) trong chăn nuôi bò. Trên địa bàn thành phố chưa có doanh nghiệp đầu tư sản xuất thức ăn hỗn hợp giành cho bò sữa, bò thịt. Do tốc độ đô thị hóa nhanh, nên diện tích đất sử dụng để trồng cỏ cho bò đang dần bị thu hẹp, nguồn thức ăn thô xanh phục vụ chăn nuôi bò còn hạn chế, dẫn tới thiếu hụt nguồn thức ăn cho bò vào mùa đông. Bên cạnh đó, còn nhiều vướng mắc, khó khăn về thủ tục đất đai nên chưa khuyến khích được các doanh nghiệp đầu tư vào phát triển chăn nuôi bò, phát triển chuỗi liên kết tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi, nhất là chế biến sâu các sản phẩm từ thịt bò. Việc xây dựng thương hiệu sản phẩm từ bò sữa, bò thịt còn hạn chế, chưa tương ứng với xu thế hội nhập quốc tế.
Những nội dung cụ thể về phát triển chăn nuôi bò sữa, bò thịt thời gian tới tại Hà Nội đó là:
Đối với đàn bò sinh sản phát triển theo hướng tăng chất lượng và khối lượng đàn cái sinh sản, đưa trọng lượng đàn bò cái sinh sản tăng thêm 10% so với hiện nay (bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo giữa đàn bò cái nền với tinh bò Senepol). Đối với đàn bò thịt, tiếp tục nâng cao năng suất, chất lượng đàn bò thịt bằng phương pháp lai tạo với tinh bò chất lượng cao (BBB, Chaorolais, Inra 95 ...), nâng khối lượng của bò thịt trưởng thành (24 tháng tuổi) tăng 15 - 20%. Đối với bò sữa tăng dần tỷ lệ đàn bò sữa Holstein Friesian (HF) theo hướng tiệm cận với chất lượng giống thuần chủng (đàn bò sữa có tỷ lệ máu lai 7/8 trở lên chiếm trên 90%). Năng suất sữa đạt 5.500 kg/con/chu kỳ trở lên (tương đương tăng 10%/con/chu kỳ trở lên). Ngoài ra, còn phát huy tiềm năng, lợi thế của các vùng sinh thái thích ứng với biến đổi khí hậu, sản xuất hàng hóa quy mô lớn, sản xuất theo hướng an toàn sinh học, an toàn thực phẩm, sản phẩm được truy xuất nguồn gốc gắn với chuỗi liên kết. Góp phần thực hiện chương trình nông thôn mới nâng cao đời sống nông dân, đảm bảo an sinh xã hội và thực hiện cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp Hà Nội theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, phát triển hiệu quả, bền vững.
Một số giải pháp trọng tậm cụ thể:
Thông tin tuyên truyền và đào tạo kỹ thuật, đặc biệt tuyên truyền sâu rộng các chính sách của thành phố về hỗ trợ giống, xử lý môi trường, tạo điều kiện để các doanh nghiệp đâu tư xây dựng liên kết chuỗi. Tiếp tục ứng dụng công nghệ cao trong lĩnh vực giống vật nuôi, thức ăn chăn nuôi, điều kiện chăn nuôi, trang thiết bị chuồng trại, công tác vệ sinh thú y. Tạo cơ chế chính sách thu hút doanh nghiệp đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất thức ăn hỗn hợp dành riêng cho chăn nuôi bò (TMR, TMF ...). Đồng thời đào tạo đội ngũ quản lý từ cấp thành phố đến các địa phương nhất là các huyện thuộc vùng phát triển chăn nuôi bò sữa bò thịt để thức hiện tốt chức năng quản lý nhà nước về giống, thức ăn chăn nuôi, an toàn dịch bệnh cho chăn nuôi bò. Đào tạo đội ngũ kỹ thuật giỏi tay nghề về TTNT tiến tới nâng cao trình độ chuyên sâu từ TTNT đến cấy truyền phôi áp dụng thời gian tới. Tiếp tục tổ chức các hội thi về dẫn tinh viên giỏi, thi bò sữa, bò thịt để động viên khuyến khích người chăn nuôi, kết nối thu hút các doanh nghiệp đầu tư xây dựng các trang trại chăn nuôi bò công nghệ cao và tiêu thụ sản phẩm, xây dựng thương hiệu, nhãn hiệu sản phẩm.
Tăng cường xúc tiến thương mại và liên kết chuỗi, phát triển rộng mô hình các chuỗi liên kết trong chăn nuôi, giết mổ, chế biến và tiêu thụ sản phẩm; Khuyến khích tổ chức sản xuất khép kín, liên kết giữa các khâu trong chuỗi giá trị để cắt giảm chi phí, tăng hiệu quả và giá trị gia tăng; Thúc đẩy, quảng bá, xúc tiến thương mại đối với các sản phẩm chăn nuôi. Phối hợp chặt chẽ với Sở Nông nghiệp & PTNT các tỉnh, thành phố trong công tác phòng, chống dịch bệnh và liên kết, tiêu thụ sản phẩm. Đặc biệt liên kết chặt chẽ với 10 tỉnh đồng bằng sông Hồng trong việc cung cấp sản phẩm cho Hà Nội và các tỉnh, thành.
Tăng cường công tác thanh kiểm tra các cơ sở chăn nuôi, cơ sở sơ chế, chế biến sản phẩm để tuyên truyền, hướng dẫn đảm bảo Luật Chăn nuôi, Luật Thú y, Luật An toàn thực phẩm. Tăng cường công tác giám sát dịch bệnh với phương châm phòng là chính, phát hiện nhanh, xử lý kịp thời, triệt để không để dịch bệnh lây lan ra diện rộng, giảm thiểu thiệt hại ở mức thấp nhất. Tập trung hướng dẫn các cơ sở xây dựng vùng cơ sở an toàn dịch bệnh đối với các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm thường xảy ra đối với bò sữa, bò thịt (lở mồm long móng, viêm da nổi cục ...).
Chuyển đổi đối tượng vật nuôi chủ lực phù hợp vùng, miền sinh thái, rà soát từng đối tượng vật nuôi để đề xuất điều chỉnh cho phù hợp thực tiễn nhu cầu phát triển sản xuất của từng vùng, từng phân khúc thị trường; sử dụng hiệu quả nguồn chất thải chăn nuôi bảo đảm an toàn dịch bệnh, bảo vệ môi trường; Hướng dẫn các cơ sở chăn nuôi sản xuất giống, các doanh nghiệp chăn nuôi trên địa bàn thành phố thực hiện chăn nuôi theo quy chuẩn quốc gia theo quy định./.
Nguyễn Ngọc Sơn - Chi cục Chăn nuôi và Thú y Hà Nội