Tỉ lệ phối giống
Tỉ lệ chết non, chết sơ sinh và bệnh tật ở bò nhân bản vô tính
Cơ quan An toàn thực phẩm châu Âu EFSA (European Food Safety Authority) đưa ra những đánh giá của mình về động vật nhân bản, dựa trên cuộc đời con vật để đánh giá sức khỏe con vật và sự tiêu thụ (EFSA, 2008). FDA và EFSA đã thông qua các dữ liệu về đời sống như sự chết ở bò SCNT tại Mỹ, Argentina và Brazil (Pace và cộng sự, 2002; Panarace và cộng sự, 2007). Tập hợp dữ liệu đời sống của 117 con vật và 388 con bò SCNT được thu thập trong 2-5 năm. Mặc dù tỷ lệ thai chết non và chết sơ sinh ở mức cao, nhưng hơn 70% bò nhân bản vẫn sống và khỏe mạnh trong suốt quá trình quan sát của họ. Tại Nhật Bản, hơn 500 bò SCNT được sản xuất từ khoảng 40 tổ chức (Watanabe & Nagai, 2008) kể từ khi con bò SCNT đầu tiên được sản xuất vào năm 1998 (Kato và cộng sự, 1998). Dữ liệu cuộc đời của những con bò SCNT và con cháu của nó đều được các tổ chức Nhật Bản lưu giữ. Do đó, cuộc khảo sát toàn quốc về dữ liệu tuổi thọ của bò SCNT và con cháu của nó đã được tiến hành trong năm 2006 để có được những dữ liệu liên quan đến cái chết của họ kể cả chết non, thai chết lưu, và các bệnh trong suốt đời.
Kết quả liên quan đến cuộc đời của 482 bò SCNT (97,5% bò được sản xuất trong nước tại thời điểm đó) và 202 con cháu của bò SCNT đã được thu thập và phân tích cả những lý do chết của chúng. Mặc dù 1/3 bê SCNT chết trong thời kỳ trong bụng mẹ do chết lưu và chết non, nhưng tỉ lệ chết do bệnh tật ở bò SCNT còn sống sót hơn 200 ngày sau khi sinh thì tương đồng với bò nuôi thông thường. Con cháu của bò SCNT có tỉ lệ chết cũng giống bò thông thường nuôi trong suốt cuộc đời của nó. Kết quả này cho thấy những bò SCNT sống đến tuổi trưởng thành đều khỏe mạnh, bình thường và cả con cháu của nó cũng tương tự.
Lược dịch: ThS. Hồ Quế Anh