Sinh sản ở bò sữa
Xác định chức năng sản xuất sữa – Chỉ tiêu đo năng suất sữa
Xác định chức năng sữa của bò sữa là một trong những công việc quan trọng nhất của trang trại bò sữa. Để nâng cao chất lượng đàn bò, phải xác định và tính toán một cách chính xác chức năng sữa của bò sữa, lấy đó làm căn cứ để chọn giống, chọn nhân giống, kiểm chứng lượng thức ăn, đánh giá đẳng cấp, lập kế hoạch sản xuất và tính toán giá thành… xác định chức năng sữa của bò sữa chủ yếu gồm xác định chức năng sản xuất sữa. xác định khả năng vắt sữa; xác định sức đề kháng viêm tuyến vú, niên hạn sử dụng, phát dục sinh trường.
I- Xác định chức năng sản xuất sữa
Chức năng sản xuất sữa là chức năng sản xuất chính nhất của bò sữa, đây là xác định chức năng hệ thống bắt đầu sớm nhất trong xác định chức năng sinh sản của tất cả gia súc vật nuôi. Tại một số nước phát triển ở Châu Mỹ, từ cuối thế kỷ 19 họ đã bắt đầu việc xác định chức năng sản xuất sữa, đến nay đã hình thành một hệ thống xác định rất hoàn thiện và quy phạm.
1-Chỉ tiêu đo năng suất sữa:
Chức năng sản xuất sữa chủ yếu dùng dùng để đo sản lượng sữa và đo hàm lượng thành phần sữa. Thành phần sữa chủ yếu là mỡ và Protein
1.1-Chỉ tiêu đo năng suất sữa:
– Sản lượng sữa năm: là tổng sản lượng sữa trong một năm bình thường.
– Lượng sửa sản xuất trong giai đoạn tiết sữa: Là tổng sản lượng sữa giai đoạn ngày đầu tiên sau khi sinh con đến hết sữa.
– Lượng sữa trong 305 ngày: Tổng sản lượng sữa từ lúc sinh con đến ngày tiết sữa thứ 305. Do giai đoạn tiết sữa của mỗi cá thể khác nhau, nên sản lượng thời kỳ tiết sữa của bò khác nhau, vì thế phải tiêu chuẩn hóa sản lượng sữa trong giai đoạn tiết sữa thực tế là sản sản lượng sữa trong số ngày tiết sữa thống nhất. Hiện cách phổ biến của các nước trên thế giới là tiêu chuẩn hóa sản lượng sản xuất giữa trong giai đoạn tiết sữa thực tế là 305 ngày, thêm nữa giai đoạn tiết sữa 305 ngày cũng chính là một năm bò sinh một lần, thời gian sinh cách nhau 12 tháng được cho là lý tưởng nhất. Thông thường, khi số ngày tiết sữa thực tế của một con bò trong giai đoạn tiết sữa vượt quá 305 ngày thì sẽ lấy lượng sữa sinh sản của 305 ngày, số vượt qua đó không tính. Khi số ngày tiết sữa không đủ 305 ngày (bất kể do nguyên nhân gì) thì sẽ ghi sản lượng sữa thực tế và ghi số ngày sản xuất sữa. Hiệp hội sữa Trung Quốc đã tiến hành đối chiếu sản sản lượng sữa giai đoạn tiết sữa thực tế, đối chiếu là sản lượng sữa trong 305 ngày.(xem bảng 10-3)
Bảng 10-3: Hệ số hiệu chỉnh tiết sữa chưa đầu 305 ngày
: Ngày tiết sữa
Lần mang thai |
240 | 250 | 260 | 270 | 280 | 290 | 300 | 305 |
1 | 1.182 | 1.148 | 1.116 | 1.036 | 1.055 | 1.031 | 1.011 | 1.00 |
1-5 | 1.165 | 1.133 | 1.103 | 1.077 | 1.052 | 1.031 | 1.011 | 1.00 |
Trên 6 | 1.155 | 1.123 | 1094 | 1.070 | 1.047 | 1.025 | 1.009 | 1.00 |
Dùng các hệ số trên chọn cách bỏ 5 tiến 6, tức là một con bò sữa nào 265 ngày có thể dùng hệ số 260 ngày, 266 ngày có thể dùng hệ số 270 ngày.
-Đương lượng trưởng thành: Tuổi bò sữa sinh con có ảnh hưởng quan trọng đến lượng sữa sinh sản giai đoạn tiết sữa. Thường khi trẻ ( Khi sinh thai thứ nhất và thứ hai) sản lượng sữa rất thập, khi trưởng thành (nhưng sinh con thứ 4 thứ 6) thì đạt cao nhất, còn sau đó giảm dần. Để so sánh sản lượng sữa giai đoạn tiết sữa của tuổi sinh con khác nhau, phải tiến hành tiêu chuẩn hóa độ tuổi sinh con.Cách làm thông thường là đối chiếu sản lượng sữa giai đoạn tiết sữa của các tuổi sinh con khác nhau với lượng sản xuất khi trưởng thành, gọi là đương lượng trưởng thành. Hiệp hội sữa Trung Quốc trong “Biện pháp đăng ký bò Holstein Trung Quốc (thực hành” đưa ra vào tháng 9 năm 1992 đã đưa ra một phương pháp đối chiếu, tức đối chiếu sản lượng sữa trong các lần sinh khác nhau với lần sinh thứ 5. Hệ số đối chiếu xem bảng 10 -4.
Bảng 10-4: Hệ số đối chiếu của sản lượng sữa trong các lần sinh
Lần sinh | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 |
Hệ số | 1.3514 | 1.1765 | 10870 | 1.0417 | 1.0000 |
Phương pháp này rất không chuẩn xác, bởi cùng một tuổi sinh con trong cùng một lần sinh cũng có khác biệt rất lớn. Hiện nước Mỹ tiến hành đối chiếu dựa vào tuổi sinh con thực tế, đều đối chiếu đến 72 tháng tuổi. Khi đối chiếu còn phải xét đến sự khác biệt giữa giống, khu vực và thánh sinh con. Nhưng Trung Quốc hiện thiếp nghiên cứu về mặt này.