Định hướng phát triển ngành sữa việt nam
Tình hình phát triển chăn nuôi bò sữa ở Việt nam 2001-2009 và dự báo 2010-2020
Đỗ Kim Tuyên, Cục Chăn nuôi Chăn nuôi bò sữa ở Việt Nam có lịch sử phát triển trên 50 năm, nhưng bò sữa thực sự phát triển nhanh từ năm 2001 sau khi có Quyết định số 167/2001/QĐ-TTg ngày 26/10/2001 của Thủ tướng Chính phủ về một số biện pháp và chính sách phát triển bò sữa Việt Nam giai đoạn 2001-2010. Tổng đàn bò sữa của nước ta đã tăng từ 41 nghìn con/năm 2001 lên trên 115 nghìn con năm 2009 và tương tự tổng sản lượng sữa tươi sản xuất hàng năm tăng trên 4 lần từ 64 ngàn tấn/năm 2001lên trên 278 ngàn tấn/năm 2009. Trong gần 10 năm thực hiện Quyết Định 167 của Thủ tướng Chính phủ về phát triển bò sữa giai đoạn 2001-2010, số lượng đàn bò sữa của ta cũng có lúc thăng trầm khác nhau và đạt bình quân trên 30% năm. Giai đoạn 2001-2006 tốc độ phát triển đàn bò và sản lượng sữa đã vượt mục tiêu đề ra: số lượng bò đạt trên 104% (104/100ngàn con) và sản lượng sữa đạt trên 131% (197/150 ngàn tấn). Trong những năm vừa qua, năm 2009 chăn nuôi bò sữa Việt Nam có nhiều thuận lợi và gặt hái nhiều thành quả tốt đẹp, chăn nuôi bò sữa thực sụ có hiệu quả kinh tế so với các vật nuôi khác. Nhu cầu về sữa tươi sản xuất trong nước tăng cao, đây là cơ hội rất tốt để phát triển nhanh hơn đàn bò sữa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của xã hôi Giá thu mua sữa bò tươi của các công ty sữa trên phạm vi cả nước giao động từ 7.800 - 8.500 đồng/lít đang rất có lợi và khuyến khích người chăn nuôi đầu tư phát triển bò sữa. Các công ty, như Công ty Vinamilk, Công ty sữa quốc tế-IDP Hà Nội, Công ty sữa tương lai Tuyên Quang, Công ty CP sữa Lâm Đồng, Công sữa TH Milk Nghệ An …đang triển khai chương trình phát triển vùng nguyên liệu và mở rộng cơ sở chế biến sữa góp phần đưa ngành chăn nuôi bò sữa và chế biến sữa của Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới. Những thành tựu đạt được về chương trình sữa Việt Nam 2001-2010 theo Quyết định 167 của Chính phủ đã khẳng định đường lối đúng đắn về phát triển chăn nuôi bò sữa của Chính phủ nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp tăng nhanh số lượng và chất lượng sản phẩm chăn nuôi, giảm nhập siêu sản phẩm sữa, tạo việc làm, tăng thu nhập, cải thiện và nâng cao đời sống cho cư dân nông nghiệp và nông thôn.
PHẦN MỘT
HIỆN TRẠNG CHĂN NUÔI BÒ SỮA VIỆT NAM
1. Phát triển số lượng và chất lượng giống bò sữa Với quan điểm sản xuất giống bò sữa trong nước là chủ yếu, Bộ Nông nghiệp và PTNT chủ trương lai tạo và phát triển bò sữa trong nước thông qua phê duyệt chương trình và các dự án giống bò sữa 2001-2005 và 2006-2010. Tổng vốn đầu tư các dự án giống bò sữa có giá trị hàng chục tỷ đồng đã hỗ trợ nông dân tinh bò sữa cao sản, dụng cụ, vật tư và công phối giống đã tạo ra trên 75.000 bò sữa lai HF (F1, F2, F3) cho các địa phương nuôi bò sữa trên phạm vi cả nước. Ngoài ra cán bộ kỹ thuật và người chăn nuôi đã được tập huấn nâng cao trình độ quản lý giống, kỹ thuật chăn nuôi, thức ăn, thú y, vệ sinh phòng bệnh, vệ sinh vắt sữa.v.v. góp phần năng cao năng xuất và chất lượng đàn bò sữa. Trong quá trình lai tạo chọn lọc và nhân giống bò sữa trong nước, đàn bò lai HF thích nghi và phát triển tốt với điều kiện khí hậu nóng ẩm của Việt Nam, sinh trưởng, sinh sản và cho sữa tốt. Trong thời gian qua ngoài lai tạo giống bò sữa trong nước việc nhập các nguồn gien bò sữa mới cũng được tiến hành thông qua nhập bò đực giống HF của các nước trên thê giới như Mỹ, Úc về sản xuất tinh bò đông lạnh trong nước phục vụ nhân giống bò sữa trên phạm vi cả nước. Đồng thời trên 15 ngàn bò cái sữa giống HF và Jersey cũng được nhập về từ Mỹ, Úc, New Zealand, Thái lan về nhân thuần đáp ứng nhu cầu nuôi bò sữa thuần cao sản của một số tổ chức và cá nhân trong nước. Hiện nay tổng đàn bò sữa giống HFcủa nước ta khoảng 20.000 con và sẽ tăng lên nhanh trong những năm sắp tới do nhu cầu nhập giống của các Công ty sữa và doanh nghiệp ngày càng cao.
Phát triển bền vững về số lượng và chất lượng đàn bò sữa là một trong những mục tiêu quan trọng trong chỉ đạo thực hiện đối với chiến lược phát triển bò sữa của nước ta giai đoạn 2001-2010 và chiến lược chăn nuôi của Việt Nam giai đoạn 2011-2020. Đàn bò sữa của Việt Nam đã phát triển tốt không chỉ về số lượng mà cả chất lượng trong thời gian gần 10 năm vừa qua (Bảng 1). Theo số liệu của Tổng Cục thống kê Việt nam, đến tháng 10 năm 2009 tổng đàn bò sữa năm 2009 của nước ta là 115,518 ngàn con, sản lượng sữa đạt 278 ngàn tấn (bảng 1 phụ lục).
Tổng đàn bò sữa liên tục tăng trong 10 năm vừa qua, tuy nhiên 2005-2009 tốc độ tăng đàn thấp thậm chí năm 2007 số lượng bò sữa giảm do khủng hoảng về giá: giá sữa bột thế giới thấp nên tác động đến giá thu mua sữa tươi của các công ty sữa. Trong nhiều tháng giá sữa tươi của nông dân bán bằng và dưới giá thành buộc người chăn nuôi phải giảm đàn, thanh lọc loại thải đàn. Trong quá trình giảm đàn những bò sữa năng xuất thấp, ngoại hình xấu, sinh sản kém bị loại đã góp phần chọn lọc và nâng cao chất lượng giống bò sữa Việt Nam. Do đó năm 2007 mặc dù số lượng bò sữa giảm 12% so với 2006 nhưng tổng sản lượng sữa tươi sản xuất ra vẫn tăng trên 8,5%. Từ năm 2008 -2009 tốc độ tăng đàn thấp thứ nhất do khủng hoảng về melanine từ Trung Quốc đã ảnh hưởng đến sản xuất chế biến và tiêu dùng sữa ở Việt nam. Sữa tươi của nông dân Hà Nội và một số tỉnh lân cận không tiêu thụ được phải đổ đi, nhiều bò sữa phải bán giá bò thịt đã ảnh hưởng đến phát triển chăn nuôi bò sữa. Thứ hai do khủng hoảng kinh tế tài chính thế giới và Việt Nam đã ảnh hưởng đến phát triển kinh tế nước ta nói chung và tốc độ phát triển của chăn nuôi và bò sữa nói riêng. Tuy nhiên sang năm 2010 nền kinh tế thế giới và Việt Nam chuyển sang giai đoạn phục hồi đã và đang có tác động tốt đến Chương trình phát triển bò sữa của nước ta ở giai đoạn mới.
2. Phân bố đàn bò sữa theo các vùng sinh thái Phát triển đàn bò sữa của nước ta phát triển trên tất cả các vùng sinh thái của Việt Nam. Tuy nhiện sự phân bố khác nhau về số lượng đã thể hiện sự phát triển của bò theo vùng sinh thái và lợi thê của từng vùng. Đàn bò sữa Việt Nam tập trung chủ yếu tại vùng Đông Nam Bộ 79 ngàn con, chiếm trên 68% tổng đàn bò sữa cả nước, trong đó thành phố HCM là nơi có đàn bò sữa nhiều nhất Việt Nam và chiếm gần 60% tổng đàn bò sữa Việt Nam (bảng 2). Theo số liệu của Tổng Cục thống kê năm 2009 tổng đàn bò sữa cả nước có trên 115 ngàn con. Mười tỉnh có đàn bò sữa lớn nhất là: (i) Thành phố Hồ Chí Minh 73.328 con, (ii) Hà Nội 6.800, (iii) Long An 6.104, (iv) Sơn La 5.136, (v) Sóc Trăng 5.071, (vi) Tiền Giang 3.371, (vii) Lâm Đồng 2.833, (viii) Bình Dương 2.351, (ix) Tuyên Quang 1.748, và (x) Đồng Nai 1.670 con. Trong những năm gần đây nhu cầu về phát triển chăn nuôi bò sữa cao sản quy mô công nghiệp là rất lớn, nhiều Công ty sữa và doanh nghiệp có dự án phát triển chăn nuôi bò sữa trang trại. Từ tháng 8 năm 2009, tại Nghệ An có một dự án lớn về chăn nuôi bò sữa công nghiệp của Công ty sữa TH. Đầu năm 2010, sau 3 đợt nhập từ tháng 3 đến tháng 6 năm 2010 tổng số bò sữa của Công ty là 4590 con bò sữa HF nhập từ New Zealand. Theo kế hoạch và dự kiến hết năm 2010 tổng đàn bò của Công ty sẽ là 9000 con. Trong thời gian vừa qua theo thông tin từ Công ty sữa Vinamilk đến tháng 6/ 2010 công ty đã nhập về 1000 bò sữa hậu bị HF trong đó 350 bò từ New Zealand, 350 bò từ Australia và số còn lại từ Thái Land. Theo quy luật phát triển chăn nuôi bò sữa của nhiều nước trên thê giới và khu vực thì việc phát triển vùng nguyên liệu sữa trên quy mô lớn với phương thức chăn nuôi công nghiệp, khép kín và sản xuất hàng hóa là xu hướng tất yếu của ngành sữa Việt Nam trong những năm của thập kỷ tới.
3. Tổng sản lượng sữa tươi Tốc độ tăng trưởng về tổng sản lượng sữa tươi sản xuất trong nước trong thời gian 10 năm qua trung bình trên 30% năm, tốc độ tăng sản lượng sữa cao hơn tốc độ tăng đàn bò sữa cho thấy năng xuất sữa và chất lượng giống được cải thiện. Hiện nay sữa bò tươi sản xuất trong nước đang được người tiêu dùng Việt Nam ưa chuộng hơn các sản phẩm sữa chế biến khác. Giá sữa tươi thu mua của các công ty sữa đang ở mức cao cao có lợi cho người nuôi bò và khuyến khích cho cho người chăn nuôi đẩy mạnh sản xuất. Tổng sản lượng sữa tươi trong nước hàng năm tăng nhanh từ số lượng 18,9 ngàn tấn sữa tươi năm 1999 tăng lên 278 ngàn tấn năm 2009. Năm 2009 mặc dù giá sữa bột thế giới giảm từ 5.500 USD xuống 3.500 USD/tấn nhưng giá sữa tươi của Việt Nam không chịu ảnh hưởng của giá sữa tươi thế giới. Trong lúc nông dân các nước EU phải đổ sữa tươi do giá thu mua sữa thấp nhưng ở Việt Nam giá sữa tươi vẫn ở mức cao từ 8000-9000 đồng trên 1 kg. Tháng 6 năm 2010, giá sữa tươi vùng Ba Vì Hà Nôi hiện nay người chăn nuôi được trả tại nhà máy là 9.200 đồng /lít. Tổng sản lượng sữa tươi hàng năm tại bảng 3 phần phụ lục.
4. Thị trường tiêu dùng sữa trong nước Tâm lý người Việt Nam trong tiêu dùng thường thích hàng ngoại và sữa ngoại, tuy nhiên sau bão về sữa Trung Quốc có Melanine vào cuối năm 2007 và đầu năm 2008 thì tâm lý về tiêu dùng sữa Việt Nam có thay đổi. Hiện nay việc sử dụng sữa tươi sản xuất trong nước được nhiều người ưa chuộng không chỉ ở giá mua rẻ hơn mà chất lượng tốt và an toàn hơn. Mặt khac xu hướng người Việt Nam tiêu dùng hàng Việt Nam cũng tác động đến đông đảo người tiêu dùng sản phẩm sữa Việt. Bình quân sản lượng sữa tươi sản xuất trong nước trên đầu người hiện nay là 3,2 kg chiếm khoảng trên 20% tổng lượng sữa tiêu dùng hàng năm. Trong mười năm gần đây mức tiêu dùng sữa và các sản phẩm sữa của người Việt Nam gia tăng nhanh chóng do thu nhập và đời sống ngày càng được nâng cao. Nếu bình quân sữa tiêu dùng đầu người năm 2000 là 8kg sữa nước/năm thì năm 2008 là 14,8kg/người năm (bảng 4). Khi GDP bình quân đầu người của Việt Nam tăng trên 1000 USD/năm thì nhu cầu về tiêu dùng sản phẩm chất lượng cao và sữa ngày càng tăng.
5. Hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi bò sữa Chăn nuôi bò sữa của Việt Nam chủ yếu là chăn nuôi bò sữa nông hộ quy mô nhỏ năng xuất thấp, tuy nhiên chăn nuôi bò sữa nông hộ thực sự có hiệu quả kinh tế và góp phần năng cao thu nhập cải thiện đời sống cho nông dân. Kết quả điều tra nghiên cứu năm 2009 của Cục Chăn về chăn nuôi bò sữa nông hộ cho thấy: - Trung bình về quy mô đàn bò sữa nuôi trong các nông hộ của cả nước là 5 con trong đó ở các tỉnh miền Bắc là 4 con/hộ (dao động từ 2 con đến 17 con/hộ), tỷ lệ đàn bò khai thác sữa tương đối cao, chiếm 65,15% tổng đàn, trung bình ở các tỉnh miền Nam là 6 con hộ (dao động từ 3 đến 25 con) .
- Giống bò sữa hiện đang nuôi ở Việt Nam trên 80% là bò lai HF có tỷ máu HF từ 50-97,5%, năng xuất sữa trung bình năm 2009 trung bình từ 4000-4500 lít/chu kỳ cho sữa. Khoảng 15% tổng đàn bò sữa là bò thuần HF có sản lượng sữa trung bình 5500-6000 lít /chu kỳ cho sữa. - Về giá thành sản xuất ra 1kg sữa bò tươi bình quân là 6.100 đồng/kg (dao động từ 5.900-6.2000 đồng /lít phụ thuộc vào quy mô chăn nuôi và năng xuất bình quân của đàn. Với giá bán trung bình 7.800-8.500 đồng/kg, mỗi kg sữa sản xuất ra người chăn nuôi bò sữa lãi khoảng 2.000-2.500 đồng. Nếu tính cả thu nhập khác từ chăn nuôi bò sữa như bán bê giống, bê thịt và phân chuồng thì lãi thực tế từ 1 kg sữa là 2.800 -3.000 đồng. - Về cơ cấu giá thành sữa tươi sản xuất ở điều kiện nông hộ của Việt Nam hiện nay chi phí thức ăn chiếm tỷ lệ cao nhất là 55,5%, tiếp theo chi phí lao động 25% và chi phí cố định 13,9%. Trong chi phí thức ăn, thì chi phí thức ăn tinh chiếm 63,4%, và thức ăn thô xanh chiếm 30,4%.
- Chăn nuôi bò sữa nông hộ năm 2009 có hiệu quả kinh tế cao, thu nhập hỗn hợp và lãi trung bình/con bò sữa/năm tương ứng là 16,6 triệu và 11,6 triệu đồng. Về tỷ suất lợi nhuận (lãi/chi phí) trong chăn nuôi bò sữa nông hộ ở hộ năm 2009 là 36%. - Đối với chăn nuôi bò sữa nông hộ tỷ suất thu hồi vốn nội bộ (IRR) đối với bò sữa có năng suất thấp là 16%, đối với loại bò sữa có năng suất cao IRR là 23%. Thời gian hoàn vốn trong đầu tư phát triển chăn nuôi bò sữa hiện nay từ 6 năm với lãi suất 7,8%/năm đối với bò năng suất thấp, và 4 năm đối với bò năng suất cao. Kết quả nghiên cứu đã khẳng định rằng việc đầu tư tiền vốn vào để phát triển chăn nuôi bò sữa hiện nay là một trong những lựa chọn đầu tư có tính khả thi cao.
6. Một số ý kiến đánh giá về chăn nuôi bò sữa Việt Nam Sau gần 10 năm thực hiện Chương trình phát triển bò sữa theo Quyết định 167 của Chính phủ chúng ta có một số đánh giá và nhận xét về chăn nuôi bò sữa trong thời gian qua như sau: Thuận lợi và thành tựu : Chăn nuôi bò sữa Việt Nam đã và đang được Chính phủ có chính sách hỗ trợ cho người chăn nuôi bò sữa theo Quyết định 167. Các dự án giống bò sữa thông qua các chương trình tập huấn đã giúp người chăn nuôi nâng cao trình độ và kỹ thuật chăn nuôi bò sữa. Hầu hết giống bò sữa được lai tạo ở Việt Nam hiện nay là bò lai HF, thông qua các dự án giống các nguồn gien bò sữa cao sản đã được nhập nội góp phần nâng cao năng suất và chất lượng giống. Năng xuất và sản lượng sữa của bò sữa Việt Nam hiện nay 4000-4500 kg/ chu kỳ tương đương hoặc cao hơn với một số nước trong khu vực như Thái Lan, Indonesia, Philipine và Trung Quốc. Chăn nuôi bò sữa là một nghề có hiệu quả kinh tế cao, góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập, nâng cao đời sống cho nông dân Khó khăn: Ngành chăn nuôi bò sữa là một nghề mới ở Việt Nam, một số người chăn nuôi vẫn còn ít kinh nghiệm nên còn nhiều khó khăn, năng xuất thấp và chất lượng sữa chưa cao. Quy mô chăn nuôi bò sữa còn nhỏ, phương thức chăn nuôi còn hạn chế, thức ăn chăn nuôi tận dụng nên đa số nông dân chưa có điều kiện để áp dụng khoa học công nghệ cao vào phát triển chăn nuôi bò sữa. Phần lớn nguồn nguyên liệu thức ăn tinh và các chất premix, vitamin… dùng trong chăn nuôi bò sữa phải nhập khẩu nên chi phí đầu vào chăn nuôi bò sữa cao, giá thành cao khả năng cạnh tranh về chất lượng sản phẩm còn hạn chế.
Bài viết khác |